Sau hơn tám năm thực hiện, nhiều chuyên gia trong ngành đang đặt ra câu hỏi: liệu Nghị định này còn phù hợp với thực tiễn quản lý hiện nay? đặc biệt khi ngành tài nguyên và môi trường đã được sáp nhập với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Những quy định về thu thập, quản lý và khai thác dữ liệu ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế. Bài viết này phân tích cơ sở pháp lý, nội dung chính, kết quả thực thi và những hạn chế của Nghị định; đồng thời, đề xuất hướng sửa đổi, thay thế Nghị định theo hướng mở rộng phạm vi sang quản lý dữ liệu của ngành mới, rộng hơn đó là: dữ liệu nông nghiệp – tài nguyên – môi trường, phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.
I. Tại sao lại cần Nghị định 73/2017/NĐ-CP?
Trước năm 2017, tình trạng quản lý dữ liệu tài nguyên và môi trường ở nước ta khá "manh mún". Các văn bản như Luật Bảo vệ môi trường 2014, Luật Tài nguyên nước 2012, Luật Đất đai 2013 hay Luật Công nghệ thông tin 2006 đều có đề cập đến vấn đề này. Song chúng chưa tạo ra được một hệ thống thống nhất về nguyên tắc thu thập, cơ chế chia sẻ và khai thác dữ liệu. Trong giai đoạn này, nước ta đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chính phủ nhận thấy nhu cầu cấp thiết phải xây dựng một hệ thống thông tin quốc gia về tài nguyên và môi trường. Đó là lý do Nghị định 73 được ban hành.
Văn bản có hiệu lực từ 1/8/2017, quy định cụ thể về việc thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu trong nhiều lĩnh vực: đất đai, tài nguyên nước, địa chất, khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu, đo đạc bản đồ, viễn thám, cả tài nguyên biển và hải đảo nữa. Lần đầu tiên, chúng ta có một quy định toàn diện như vậy.

II. Nghị định 73/2017/NĐ-CP quy định những gì?
Phải thừa nhận rằng, sau gần tám năm triển khai, Nghị định 73 đã có những đóng góp nhất định. Nền tảng pháp lý cho công tác quản lý dữ liệu về tài nguyên và môi trường được thiết lập. Nhiều bộ, ngành và địa phương đã bước đầu hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu riêng của mình.
Các cổng thông tin điện tử ra đời, phục vụ công tác quản lý và tra cứu. Tại Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường) đã xây dựng được nền tảng chia sẻ dữ liệu về đất đai, tài nguyên nước, khí tượng thủy văn và môi trường. Điều này hỗ trợ khá đắc lực cho việc tra cứu thông tin, dữ liệu của cộng đồng người dân, đồng thời giúp cho công tác quy hoạch, dự báo và ra quyết định của nhà nước một cách thuận lợi và chính xác hơn.
Để việc chia sẻ thông tin được cải thiện, tránh tình trạng trùng lặp trong thu thập dữ liệu, ngân sách nhà nước được tiết kiệm, hoạt động quản lý tài nguyên minh bạch hơn, năm 2022, Bộ TNMT còn ban hành Thông tư 03/2022/TT-BTNMT về kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật trong công tác thu nhận, lưu trữ, bảo quản và cung cấp dữ liệu. Đó là bước tiến mới trong tiêu chuẩn hóa.
III. Những vấn đề bắt đầu lộ rõ
Tuy nhiên, những thành tựu đó không che lấp được các hạn chế ngày càng rõ nét. Đặc biệt trong bối cảnh tái cơ cấu ngành và yêu cầu chuyển đổi số quốc gia hiện nay.
Vấn đề đầu tiên là phạm vi điều chỉnh. Nghị định chỉ tập trung vào tài nguyên và môi trường. Trong khi đó, lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, an ninh lương thực có mối liên hệ trực tiếp đến tài nguyễn đất, nước, khí hậu và môi trường. Nhưng Nghị định không đề cập gì đến các lĩnh vực này. Đây là một khoảng trống lớn.
Tiếp đó là vấn đề tích hợp dữ liệu liên ngành. Dữ liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp - như đất canh tác, nguồn nước tưới, biến đổi khí hậu, chất lượng môi trường nông thôn - hiện do nhiều cơ quan quản lý. Thiếu sự thống nhất và chia sẻ. Mỗi nơi làm một kiểu, kết nối với nhau rất khó.
Công nghệ cũng là điểm yếu. Nghị định chưa đề cập cụ thể đến những xu hướng mới: dữ liệu mở (open data), dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) hay các giải pháp dữ liệu thời gian thực. Trong khi đó, đây là những công nghệ đang dần trở thành chuẩn mực trong quản lý dữ liệu hiện đại.
Ở cấp địa phương, năng lực tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Theo quan sát của chúng tôi tại một số địa phương, vấn đề về hạ tầng công nghệ, nhân lực kỹ thuật và kinh phí duy trì hệ thống vẫn còn bỏ ngỏ. Nhiều nơi xây dựng xong hệ thống nhưng không có nguồn lực để vận hành lâu dài.
V. Đề xuất và kiến nghị sửa đổi, thay thế Nghị định 73/2017/NĐ-CP
Theo chúng tôi, Chính phủ cần sớm nghiên cứu xây dựng nghị định mới để thay thế Nghị định 73/2017/NĐ-CP. Văn bản mới cần được thiết kế theo hướng mở rộng hơn, tăng tính liên thông, phù hợp với Chiến lược chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững.
Trước hết, phạm vi điều chỉnh phải được mở rộng sang lĩnh vực nông nghiệp – phát triển nông thôn. Bao gồm cả dữ liệu về đất nông nghiệp, nguồn nước tưới tiêu, phát thải trong sản xuất nông nghiệp. Đây không chỉ là nhu cầu về mặt kỹ thuật mà còn phản ánh đúng thực tế tổ chức bộ máy sau sáp nhập.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các bộ ngành: Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ ngành khác có liên quan. Hiện nay, các bộ này đều có vai trò trong quản lý dữ liệu nhưng chưa có sự phối hợp chặt chẽ.
Về công nghệ, nghị định mới cần chuẩn hóa dữ liệu theo tiêu chuẩn quốc gia. Áp dụng nền tảng dữ liệu mở, dữ liệu thời gian thực, đảm bảo tính liên thông và bảo mật. Những công nghệ như AI, IoT, big data cần được đề cập cụ thể với lộ trình triển khai rõ ràng.
Nguồn lực là yếu tố then chốt. Kinh nghiệm từ một số tỉnh thành cho thấy, để duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu ổn định cần ít nhất 4-6 tỷ đồng mỗi năm và đội ngũ chuyên trách từ 5-7 người, và phải do một đơn vị chuyên trách về chuyển đổi số của Sở Nông nghiệp và Môi trường (cụ thể là Trung tâm Chuyển đổi số, Trung tâm Công nghệ thông tin nông nghiệp và môi trường của Sở) vận hành. Vì vậy, cần có lộ trình đầu tư cụ thể cho hạ tầng công nghệ, đào tạo nhân lực và kinh phí duy trì.
Cuối cùng, đừng quên khuyến khích hợp tác công - tư. Huy động doanh nghiệp công nghệ, viện nghiên cứu và tổ chức quốc tế tham gia vào quá trình thu thập, xử lý và khai thác dữ liệu. Nhà nước không thể và không nên làm tất cả mọi thứ.

VI. Lời kết
Nghị định 73/2017/NĐ-CP đã hoàn thành tốt vai trò của mình trong giai đoạn 2017-2023. Nó tạo nền tảng pháp lý cho việc hình thành cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường quốc gia. Điều đó cần được ghi nhận.
Nhưng thời gian không đợi ai. Khoa học công nghệ thay đổi nhanh chóng, xu hướng tích hợp dữ liệu đa ngành ngày càng rõ nét. Văn bản này không còn đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý và phát triển nữa. Ban hành nghị định mới với phạm vi rộng hơn, gắn kết lĩnh vực nông nghiệp - tài nguyên - môi trường là yêu cầu cấp thiết. Đây không chỉ là vấn đề của riêng ngành Nông nghiệp và Môi trường, mà là yêu cầu chung của cả hệ thống quản lý nhà nước trong kỷ nguyên số.
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2017). Nghị định số 73/2017/NĐ-CP ngày 14/6/2017 về thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022). Thông tư số 03/2022/TT-BTNMT quy định kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật về công tác thu nhận, lưu trữ, bảo quản và cung cấp dữ liệu tài nguyên và môi trường.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2024). Đề án phát triển dữ liệu nông nghiệp số giai đoạn 2025–2035.
4. Bộ Thông tin và Truyền thông (2023). Báo cáo chuyển đổi số quốc gia năm 2023.
5. Văn phòng Chính phủ (2022). Chiến lược quốc gia phát triển Chính phủ số đến năm 2030, định hướng đến 2050.
6. Luật Bảo vệ môi trường (2020), Quốc hội khóa XIV, số 72/2020/QH14.
7. Luật Đất đai (2024), Quốc hội khóa XV, số 31/2024/QH15.